ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU
Chủ nghĩa
trọng thương là tư tưởng kinh tế
đầu tiên của giai cấp tư sản ra đời
trước hết ở Anh vào khoảng những năm 1450, phát triển tới giữa thế kỷ thứ XVII.
Chủ nghĩa trọng thương là lý luận kinh tế đầu tiên của giai cấp
tư sản (tầng lớp tư sản thương nhân trong điều kiện chế độ phong kiến tan
rã nhưng giai cấp phong kiến vẫn nắm địa vị thống trị, giai cấp tư sản đang lên
là giai cấp tiên tiến, có cơ sở kinh tế tương đối mạnh nhưng chưa nắm quyền thống trị. Chủ nghĩa trọng thương trực tiếp phản ánh lợi ích của giai cấp tư sản thương nghiệp trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản. Tư tưởng kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa trọng thương.
Thứ nhất, họ đánh giá cao vai trò của tiền tệ (vàng, bạc): Chủ nghĩa trọng thương coi tiền tệ (vàng bạc) là tiêu chuẩn
cơ bản của của cải. Theo họ “một
xã hội giàu có là có được nhiều tiền”, “sự giàu có tích luỹ được dưới hình thái
tiền tệ là sự giàu có muôn
đời vĩnh viễn”. Họ đã đồng nhất tiền với của cải và sự giàu có của một quốc
gia, quốc gia càng
nhiều tiền thì càng giàu. Tiền mới là tài sản thực sự của một quốc gia, hàng
hóa chỉ là phương tiện làm tăng khối lượng tiền tệ. Làm kinh tế tức là phải
tích lũy tiền. Từ đó những
người theo chủ nghĩa trọng thương phê phán những hoạt động không dẫn đến
tích lũy giá trị tiền tệ. Họ coi tiêu dùng xa xỉ phẩm
là tiêu cực, coi nông nghiệp chỉ là nghề trung gian
giữa cái tích cực và cái tiêu cực vì không làm tăng thêm khối lượng tiền tệ cho
quốc gia cũng không làm tổn
hại tới khối lượng tiền tệ của quốc gia. Tiền đã được dùng để đánh giá tính hữu
ích của mọi hình thức hoạt
động nghề nghiệp. Một nhà
tư ưởng của thời kỳ trọng thương là David Hume viết: “Khi bất kỳ số lượng tiền
tệ nào được nhập vào một
nước, thì trước tiên không nên phân tán cho nhiều người, mà phải được tập trung
vào kho bạc của một vài người, những người biết sử dụng nó một cách có lợi nhất”.
Thứ hai, để có tích luỹ tiền tệ phải thông
qua hoạt động thương mại, mà trước hết là ngoại
thương, họ cho rằng: “Nội thương là hệ thống ống dẫn, ngoại thương là
máy bơm”, muốn tăng của cải
phải có ngoại thương dẫn của cải qua nội thương”. Từ đó đề ra nhiệm vụ cho ngoại
thương là phải xuất siêu mới
đạt được mục đích của nền kinh tế, mới làm tăng khối lượng tiền tệ cho quốc gia.
Đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa trọng thương là lĩnh vực lưu thông, mua bán
trao đổi. Theo Montchrestien:
“Kinh tế chính trị là khoa học về của cải thương nghiệp mà nhiệm
vụ của nó là bán nhiều, mua ít”.
Thứ ba,
họ cho rằng, lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông buôn bán, trao đổi sinh ra, nhờ
việc mua rẻ, bán đắt.
Do đó chỉ có thể làm giàu thông qua con đường ngoại thương, bằng cách hy sinh lợi
ích của dân tộc khác (mua rẻ, bán đắt, mua ít, bán nhiều).
Thứ tư,
tích luỹ tiền tệ chỉ thực hiện được nhờ sự giúp đỡ của nhà nước. Họ đòi hỏi nhà nước
phải tham gia tích cực vào đời sống kinh tế để thu hút tiền tệ về nước mình
càng nhiều càng tốt, tiền ra khỏi nước mình càng ít càng phát triển. Chủ nghĩa
trọng thương rất đề cao vai trò của nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để
phát triển kinh tế. Bởi vì đa số những biện pháp họ đề xướng đều phải dựa vào sự
ủng hộ, giúp đỡ của nhà nước mới thực hiện được. Ví dụ như tích lũy tiền tệ, điều
tiết lưu thông tiền tệ, khuyến khích bảo trợ công trường thủ công, xây dựng
hàng hải, thủy quân để xâm chiếm cướp bóc thuộc địa. Trong điều kiện mới ra đời
còn non yếu, chủ nghĩa tư bản chỉ có thể tồn tại và phát triển được khi có sự ủng
hộ giúp đỡ của nhà nước.