Các quan điểm kinh tế của Jean Baptiste Say (1767 – 1832)
Sinh ra trong gia đinh
thương gia lớn ở Lyon (Pháp), từng ở Anh. Năm 1799 làm tổng biên tập báo “Tuần
báo triết học, văn học và chính trị”. Khi Napoleon lên cầm quyền, ông được mời
đến làm việc ở Bộ Tài chính. Năm 1219 là giáo sư kinh tế chính trị đại học Tổng
hợp Paris và nhiều trường đại học khác ở Pháp. Tác phẩm chính: “Bàn về khoa
kinh tế chính trị” (1803), “Vấn đề kinh tế chính trị” hay còn gọi là “Kinh tế học
đại cương” (1817), từ những năm 1828 – 1830 xuất bản bộ “Kinh tế học toàn tập”
gồm 6 tập. Điểm nổi bật trong phương pháp luận của J.B.Say là áp dụng phương
pháp chủ quan tâm lý trong đánh giá các hiện tượng là quá trình kinh tế, phủ nhận
các quy luật kinh tế
khách quan. Muốn tước bỏ tính chất giai cấp của kinh tế
chính trị, tách chính trị khỏi kinh tế. Sau này các nhà kinh tế tư sản tiếp tục
phát triển. Ông phân loại một cách tầm thường kinh tế chính trị: Chia kinh tế
chính trị thành bốn phần là sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng tách rời
nhau, nghiên cứu tách biệt và không quan tâm đến quan hệ người với người. Đặc
biệt khi phân tích sản xuất chỉ phân tích về mặt kĩ thuật và đi đến kết luận
quy luật sản xuất là vĩnh cửu (có nghĩa là đồng nhất sản xuất tư bản chủ nghĩa
với sản xuất nói chung)
Lý
luận giá trị
Đặc điểm nối bật của lý
luận giá trị là xa rời thuyết giá trị lao động, ủng hộ thuyết giá trị ích lợi
hay giá trị chủ quan (“Thuyết về tính hữu dụng”). Theo đó, sản xuất tạo ra tính
hữu dụng (ích lợi – giá trị sử dụng), còn tính hữu dụng lại truyền giá trị cho
các vật; giá cả là thước đo của giá trị, còn giá trị là thước đo của ích lợi,
ích lợi của sản phẩm càng nhiều thì giá trị của sản phẩm càng cao. Từ đó giá trị
mang tính chủ quan, đối với người này có thể có giá trị cao nhưng với người khác
thì giá trị lại thấp. Ông đã không phân biệt giá trị sử dụng và giá trị. Theo
Say: giá trị hàng hóa là tùy tiện, không xác định được, nó được quyết định bởi
quan hệ cung cầu (chỉ được xác định trong trao đổi trên thị trường)
Lý
luận thu nhập (“Thuyết ba nhân tố”) – trên cơ sở thuyết
giá trị - ích lợi:
Theo Say, có ba nhân tố
tham gia vào sản xuất là lao động, tư bản và ruộng đất, mỗi nhân tố có ích lợi
riêng và đều có vai trò như nhau trong việc tạo ra giá trị, do đó tạo ra ba nguồn
thu nhập cho ba loại người đóng góp (tiền lương, lợi nhuận, địa tô), từ đó chứng
minh sự phân phối là bình đẳng, tư bản thu lợi nhuận là hợp lẽ, không hề có
quan hệ bóc lột. Ông cho rằng công nhân làm việc đơn giản, thô kệch nên nhận được
“cái mà công nhân cần để sống”, kiên quyết phản đối nâng lương cao cho công
nhân, còn các nhà tư bản và kinh doanh nhận công lao do “tài năng…tinh thần cần
cù và công tác lãnh đạo của họ”. Theo J.B.Say: “Lợi nhuận là hiệu suất đầu tư của
tư bản mang lại” (không phải do lao động). Theo ông, tư bản tăng dẫn đến sản phẩm
tăng, do đó giá trị cũng tăng. Ông phân biệt nhà tư bản là người có tư bản cho
vay để thu lợi tức với nhà kinh doanh là người mạo hiểm, dám chấp nhận nguy hiểm
trong cuộc chơi, là người vay tư bản, thuê công nhân, sản xuất hàng hóa bán
trên thị trường. Do đó nhà kinh doanh cũng lao động và lợi nhuận do anh ta có
chính là tiền công trả cho công quản lý kinh doanh.
Thuyết
bù trừ
Nhằm giải thích nạn thất
nghiệp trong xã hội tư bản (che đậy hậu quả việc sử dụng máy móc theo lối tư bản
chủ nghĩa) Ông cho rằng: Trong thời kỳ đầu việc sử dụng máy móc “có một số điều
bất tiện” (gạt bỏ một bộ phận công nhân, làm họ tạm thất nghiệp) nhưng cuối
cùng thì công nhân vẫn có lợi vị năng suất lao động tăng, giá cả hàng hóa sẽ rẻ
đi, sản xuất phát triển thì công ăn việc làm sẽ tăng, lại thu hút lao đông. Vì
thế công nhân là giai cấp quan tâm đến thành tựu khoa học – kĩ thuật của sản xuất
nhất. Thực chất là muốn tuyên truyền cho sự hòa hợp lợi ích giữa tư bản và lao
động.
+ “Thuyết tiêu thụ” (Lý
thuyết thực hiện)
Lý thuyết này nhằm chứng
minh rằng trong chủ nghĩa tư bản không có khủng hoảng sản xuất thừa, chỉ có thừa
bộ phận. Ông đưa ra “Quy luật thị trường” luôn có:
Tổng
cung = Tổng cầu
Theo Say: Sản phẩm được
trao đổi bằng sản phẩm, người ta chỉ có thể mua một hàng hóa bằng tiền bán một
hàng hóa khác. Do đo mọi sản phẩm sản xuất ra không những tạo ra lượng cung mà
còn tạo ra lượng cầu, nó “tự mở thị trường tiêu thụ cho những sản phẩm khác”. Số
người sản xuất ngày càng nhiều thì tiêu thụ sản phẩm càng dễ dàng (Người bán đồng
thời là người mua). Khủng hoảng thương nghiệp là hiện tượng nhất thời, gắn bó với
những tác động của các biện pháp có tính chất bên ngoài (tai họa thiên nhiên
hay chính trị, lòng tham hay sự bất lực của chính phủ). Sau đó Say đi đến kết
luận là khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản là không có, chỉ có sản xuất
thừa bộ phận có thể giải quyết được. Thực tế đã chứng minh nhận định trên là
sai lầm (những cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ bắt đầu từ 1825 đến nay)