Ông là người Pháp gốc
Thuỵ Sỹ, xuất thân từ gia đình quý tộc, tốt nghiệp đại học, ông làm việc cho một
ngân hàng ở Lion của Pháp. Từ năm 1800, ông bắt đầu nghiên cứu khoa học. Những tác
phẩm chủ yếu của ông là: "Bức tranh nông nghiệp ở Tôxcan" (1801);
"Bàn về tài sản thương nghiệp"
(1803); "Những nguyên
lý mới của
khoa kinh tế
chính trị học"
(1819); "Lịch sử nước
Pháp"; "Nghiên cứu về khoa kinh tế chính trị" (1837) . Quan điểm
kinh tế của ông được trình bày rõ nhất và đầy
đủ nhất trong tác phẩm "Những nguyên lý mới của khoa kinh tế chính trị học". Điều này đưa ông trở thành người nổi tiếng khắp thế giới. Sismondi quan tâm đến lĩnh vực phân phối nhiều hơn lĩnh vực sản xuất. Ông mơ ước muốn xây dựng một xã hội lý tưởng, ở đó có sự phân phối công bằng. Mặt khác ông đối lập với chủ nghĩa tư bản với chế độ gia trưởng và lý tưởng hóa nền sản xuất nhỏ, coi đó như "đóa hoa hồng".
đủ nhất trong tác phẩm "Những nguyên lý mới của khoa kinh tế chính trị học". Điều này đưa ông trở thành người nổi tiếng khắp thế giới. Sismondi quan tâm đến lĩnh vực phân phối nhiều hơn lĩnh vực sản xuất. Ông mơ ước muốn xây dựng một xã hội lý tưởng, ở đó có sự phân phối công bằng. Mặt khác ông đối lập với chủ nghĩa tư bản với chế độ gia trưởng và lý tưởng hóa nền sản xuất nhỏ, coi đó như "đóa hoa hồng".
Quan
điểm kinh tế của Sismondi
Sự
phê phán chủ nghĩa tư bản theo quan điểm tiểu tư sản
Theo Sismondi, không thể
định nghĩa kinh tế chính trị là khoa học về tài sản, ông cho rằng đối tượng
nghiên cứu của kinh tế chính trị là phúc lợi vật chất của con người. Ông phê
phán các nhà kinh tế chính trị cổ điển đã xem thường lợi ích của quần chúng -
là những người sản xuất. Sismondi mong muốn có một xã hội, mà ở đó có sự phân
phối công bằng. Theo ông, hạnh phúc của con người cũng như của xã hội không phải
là ở chỗ phát triển sản xuất và phát triển lực lượng sản xuất mà ở chỗ phân phối
đúng đắn những của cải vật chất tạo nên. Theo ông, để có hạnh phúc chung, thì
thu nhập phải tăng lên cùng lúc với tư bản, mức tăng dân số không vượt quá việc
tăng thu nhập; ông đã chứng minh được vấn đề phân phối lợi nhuận một cách bất
công, nên máy móc đã trở thành một tai nạn đối với những người nghèo. Theo ông,
những nhà nghiên cứu không thể bình tâm quan sát những đau khổ của con người mà
không đưa ra phương sách cứu chữa. Lênin gọi những người thuộc phái Sismondi là
những nhà lãng mạn kinh tế. Ông đối lập chủ nghĩa tư bản với chế độ gia trưởng.
Ông lý tưởng hóa chế độ gia trưởng (nền sản xuất nhỏ), nó đẹp như một đóa hoa hồng.
Đồng thời, ông cho rằng sự thắng lợi của chế độ công xưởng là mối đe dọa đối với
người thợ thủ công và tiểu thương. Ông thể hiện sự lo sợ trước nguy cơ đó. Một
trong những công lao quan trọng nhất của Sismondi là ông đã tổng kết cuộc cách
mạng công nghiệp và phê phán gay gắt chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản là cạnh
tranh không hạn chế và bóc lột quần chúng nhân dân lao động, là khủng hoảng,
phá sản và thất nghiệp. Ông đã lên án việc bóc lột trẻ em và nêu lên tác hại của
sự phân công lao động đối với thể chất và tinh thần của công nhân.
Lý
luận về giá trị
Sismondi đứng vững trên
lập trường lý luận giá trị - lao động để giải thích các hiện tượng và quá trình
kinh tế. Ông đã khẳng định lao động là nguồn gốc của giá trị - thể hiện quan điểm
bênh vực người nghèo khổ, những người sản xuất nhỏ. Ông đưa ra danh từ "Thời
gian lao động xã hội cần thiết" và cho rằng: Khi xác định lượng giá trị của
hàng hóa không được dựa vào sản xuất cá biệt mà phải dựa vào sản xuất xã hội… Ông
vạch rõ mâu thuẫn giữa giá trị và giá cả, ông cho rằng: giá trị và giá cả nhất
trí với nhau chỉ trong nền sản xuất nhỏ, từ đó ông đi đến thủ tiêu nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa - nền sản xuất lớn. Ông coi giá trị tương đối của hàng hóa là
phụ thuộc vào cạnh tranh, vào lượng cầu, vào tỷ lệ giữa thu nhập và lượng cung
về hàng hóa. Giá trị tuyệt đối hay chân chính của hàng hóa được ông giải thích
theo kiểu tự nhiên chủ nghĩa và đi tìm giá trị đó trong môt đơn vị kinh tế độc
lập.
Lý
luận về tiền tệ
Ông coi tiền chỉ có vai
trò là thước đo chung của giá trị. Sự xuất hiện của tiền chỉ làm cho việc trao
đổi hàng hóa được dễ dàng hơn. Ông chưa phát hiện ra nguồn gốc, bản chất, chức
năng của tiền. Ông coi nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa đồng nhất với nền kinh
tế tiền tệ.
Lý
luận về tư bản
Ông cho rằng: tất cả tư
bản đều là tiền tệ, và nó được chia thành tư bản cố định và tư bản lưu động,
trong đó tư bản lưu động được tái sản xuất hoàn toàn trong năm. Ông phê phán
tích chất bóc lột rõ rệt của lợi nhuận tư bản: Lợi nhuận là một phần giá trị bị
khấu trừ, do lao động công nhân làm ra bị nhà tư bản chiếm không.
Lý
luận về tiền công
Theo Sismondi, tiền
công là một phần giá trị do công nhân tạo ra. Ông công khai nói về tình trạng
điêu đứng của công nhân do sự phát triển của sản xuất cơ khí. Ông nhấn mạnh thất
nghiệp là hiện tượng xảy ra thường xuyên. Đối với những người thất nghiệp thì
giá sản phẩm công nghiệp rẻ không có lợi gì cho họ, vì họ không mua được những
thứ đó. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì tình cảnh công nhân càng điêu đứng,
tiền công càng giảm xuống, tình trạng thất nghiệp càng tăng, tiêu dùng sẽ giảm
đi. Do vậy, ông khuyên hãy quay về một xã hội mà ở đó toàn bộ giá trị do công
nhân làm ra họ được hưởng toàn bộ. Đó là xã hội tồn tại nền sản xuất nhỏ.
Lý
luận về lợi nhuận, địa tô
Trên cơ sở kế thừa những
quan điểm về lợi nhuận của trường phái tư sản cổ điển, Sismondi cho rằng lợi
nhuận là khoản khấu trừ thứ tư vào sản phẩm lao động. Đó là thu nhập không lao
động, là kết quả của sự cướp bóc công nhân, là tai họa kinh tế của giai cấp vô
sản. Ông cho rằng, việc san bằng lợi nhuận chỉ đạt được bằng cách: Phá huỷ những
tư bản cố định bằng sự tiêu vong của công nhân trong các ngành bị suy sụp. Theo
Sismondi, địa tô là kết quả của sự cướp bóc công nhân. Địa tô là một phần giá
trị do
công nhân nông nghiệp tạo
ra; là sản phẩm không được trả công của nông nhân. Địa tô không chỉ xuất hiện
trên mảnh đất tốt mà nó còn có ở cả trên những mảnh đất xấu nhất. Điều đó thể
hiện ông có tư tưởng về địa tô tuyệt đối.
Lý
luận về khủng hoảng kinh tế
Sismondi là một trong
những đại biểu đầu tiên quan tâm đến khủng hoảng kinh tế. Ông cho rằng, khủng
hoảng kinh tế không phải là hiện tượng ngẫu nhiên, cục bộ. Ông dùng lý luận
"Tiêu dùng không đủ" để giải thích khủng hoảng kinh tế. Ông quy các
mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản vào một mâu thuẫn: Sản xuất tăng lên, còn tiêu
dùng lại không theo kịp sản xuất. Từ đó ông đưa ra kết luận tiêu dùng giữ vai
trò quyết định đối với việc sản xuất. Ông cho rằng nguyên nhân cơ bản của khủng
hoảng kinh tế là trong lĩnh vực phân phối; hạnh phúc của con người và xã hội
không phải ở sản xuất mà ở phân phối đúng đắn những của cải được tạo ra. Khi chủ
nghĩa tư bản càng phát triển thì sản xuất càng mở rộng, mặt khác tiêu dùng ngày
càng giảm bớt, đó là nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế. Theo Sismondi, khủng
hoảng kinh tế không nổ ra thường xuyên là nhờ có ngoại thương, nhưng đó chỉ là
lối thoát tạm thời. Lối thoát chủ yếu và cơ bản là các nhà tư bản tiêu dùng nhiều
hơn, phát triển sản xuất nhỏ. Giảm sút sức mua trên thị trường là do sự suy đồi
của sản xuất hàng hóa nhỏ, còn khủng hoảng kinh tế là hiện tượng tất yếu của chủ
nghĩa tư bản do mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng quy định.
Dự
án cải tạo xã hội và xây dựng xã hội tương lai
Mô hình của xã hội tương lai.
Theo Sismondi, xã hội
tương lai là một xã hội sản xuất hàng hóa nhỏ độc lập của nông dân và thợ thủ
công. Thể hiện: Không có bóc lột vì không thuê mướn lao động, mà là sử dụng
chính lao động của riêng mình trên mảnh đất của riêng mình, bằng sức lao động của
mình, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của mình. Do vậy sẽ không có bóc lột. Không
xảy ra tình trạng sản xuất thừa, do vậy sẽ không có khủng hoảng kinh tế. Một xã
hội có vai trò của tiền được giảm nhẹ, tiền chỉ đóng vai trò là phương tiện lưu
thông hàng hóa. Một xã hội có quan hệ đạo lý, đạo đức được duy trì… (một xã hội
cổ truyền).
Con đường cải tạo xã hội.
Nhờ sự can thiệp của
Nhà nước: Theo ông, Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế để đảm bảo trật tự xã hội,
bảo vệ lợi ích của những người sản xuất nhỏ, thợ thủ công. Ông đề nghị nhà nước
không cho phép tập trung sản xuất, tập trung sự giàu có. Cần phải duy trì sản
xuất thủ công, duy trì chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và ruộng đất. Ông
coi nhà nước tư sản là đại diện cho lợi ích của tất cả các giai cấp và đối lập
với sản xuất lớn, đồng thời nhà nước phải có vai trò duy trì sự hài hoà xã hội
và phát triển phúc lợi chung. Dựa vào lòng tốt, lòng nhân ái kể cả của những
người giàu để cải tạo xã hội mới