Friday, August 4, 2017

HỌC THUYẾT KINH TẾ CHÍNH TRỊ TIỂU TƯ SẢN-PHẦN 3/3

Pierre-Joseph Proudhon (1809 – 1865)
Ông là người Pháp, xuất thân từ một gia đình thợ thủ công nghèo, hoàn cảnh gia đình khó khăn, đông anh em; ông vừa phải tự làm việc, tự nâng cao học vấn của mình, ham thích nghiên cứu lý luận kinh tế. Ông đã từng làm việc trong một xí nghiệp vận tải ở Lion, sau đó chuyển sang làm cho công ty đường sắt, nhà in… Năm  1837,  ông  xuất  bản  tác  phẩm "Kinh  nghiệm  chung  về  văn  phạm";  "Sở  hữu  là  gì" (1840); "Triết học của sự khốn cùng" (1846)… Ông trở lên nổi tiếng là nhờ vào tác phẩm "Triết học của sự khốn cùng" xuất bản năm 1846. Trong tác phẩm này, ông đã trình bày hệ thống quan điểm kinh tế của mình, đồng thời cũng thể hiện rõ tư tưởng tiểu tư sản. Cũng như Sismondi, Proudon cũng có tư tưởng bảo vệ nền sản xuất nhỏ.

Quan điểm kinh tế của Proudon
Lý luận về sở hữu
Theo ông, sở hữu có tính hai mặt. Mặt tích cực là bảo đảm cho sự độc lập tự do cho người sở hữu; nhưng nó có mặt xấu là phá huỷ sự bình đẳng, tạo nên sự bất công trong xã hội. Xây dựng một chế độ sở hữu tốt là xây dựng chế độ sở hữu nhỏ. Có nghĩa là duy trì, củng cố sở hữu nhỏ, thủ tiêu sở hữu lớn.
Lý luận về giá trị
Ông coi giá trị là một phạm trù trừu tượng, vĩnh viễn bao gồm hai mặt đối lập nhau: Giá trị sử dụng là hiện thân của sự dồi dào của cải, còn giá trị trao đổi thì thể hiện khuynh hướng khan hiếm của nó. Ông coi sự mâu thuẫn nội tại của hàng hóa là mâu thuẫn giữa sự dồi dào và khan hiếm của cải. Theo ông, để giải quyết mâu thuẫn này cần phải tạo ra một "giá trị pháp lý". Giá trị pháp lý được hiểu là: Quá trình trao đổi trên thị trường là một quá trình lựa chọn sản phẩm độc đáo. Có một số hàng hóa chiếm lĩnh được thị trường, được thực hiện và lại được sản xuất ra và do đó trở thành giá trị. Trong khi đó có một số hàng hóa khác lại không có may mắn như vậy, không được xã hội thừa nhận, do vậy cần phải xác lập trước giá trị để được xã hội chấp nhận. Ông lấy vàng, bạc làm tiền tệ và coi đó là những giá trị pháp lý bởi vì vàng, bạc bao giờ cũng có thể thực hiện được.
Lý luận về tiền tệ
Ông cho rằng, khi tiền tham gia vào quá trình trao đổi hàng hóa sẽ làm cho trao đổi hàng hóa bị rối loạn, vì mục đích làm giàu và tăng thêm giá trị, họ biến đồng tiền trở thành công cụ thống trị và bóc lột những người nghèo. Tiền tệ trở thành nguồn gốc của mọi sự đau khổ và bất hạnh. Theo ông, tiền tệ là đặc trưng của tư bản và ông coi mọi tư bản đều được quy về tiền tệ.
Quan điểm về tầng lớp thứ ba trong xã hội
Theo ông, tầng lớp người thứ ba trong xã hội là những người sản xuất nhỏ, những người sản xuất bị tan rã. Đây là những người cứu tinh cho xã hội, tạo thế cân bằng cho xã hội. Cương lĩnh cải tạo xã hội mới
Lý tưởng của xã hội mới.
Xã hội mới phải là xã hội dựa trên cơ sở là nền sản xuất hàng hóa nhỏ, có tính chất phường hội của nông dân và thợ thủ công, không có tư sản lớn. Xã hội mới không có bóc lột, thủ tiêu phân cách giàu nghèo, thủ tiêu sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn. Ông đề nghị tổ chức lại trao đổi trong một đề án về nền kinh tế hàng hóa không có tiền tệ (không có tiền hoặc tất cả các hàng hóa đều là tiền như nhau). Ông đề nghị thủ tiêu tiền tệ, vì ông coi tiền như một mặt xấu của nền kinh tế hàng hóa.
Phương tiện cải tạo xã hội mới.
Theo Proudon, phương tiện để cải tạo xã hội mới là Nhà nước.
- Dự án về ngân hàng trao đổi. Ông gọi những ngân hàng trao đổi là ngân hàng nhân dân: Trao đổi lao động và sản phẩm dựa trên "phiếu lao động" - Đó là phiếu ghi nhận đóng góp lao động của mỗi người tương ứng với số sản phẩm làm ra. (Thay tiền bằng phiếu lao động).
- Dự án về "tín dụng cho không" và "ngân hàng không lấy lãi".
Ông chủ trương thành lập ngân hàng nhằm mục đích giúp cho người nghèo vay không lấy lãi; tín dụng cấp cho người nghèo như là cho không. Đây là ý tưởng phát triển người nghèo, tiến tới xóa bỏ người nghèo.
- Cấp đất cho công nhân ở ngoại ô.

Ông coi công nhân làm việc trong xã hội tư bản là những lao động khổ sai, như là một bộ phận của cái máy. Họ sẽ có cuộc sống tự do, thoải mái, bớt được những tội ác thì họ phải về nhà và tránh xa nơi làm việc.