Hoàn thành cuộc cách mạng
công nghiệp ở một loạt nước tư bản chủ nghĩa, mở đầu là ở nước Anh vào những
năm 70 của thế kỷ XVIII và kết thúc vào những năm 20 của thế kỷ XIX, khi nền đại
công nghiệp cơ khí được xác lập. Nó đem lại cho chủ nghĩa tư bản những kết quả
sau:
- Biến lao động thủ
công thành lao động máy móc và làm cho chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn
công trường thủ công lên giai đoạn đại công nghiệp cơ khí.
- Làm cho chủ nghĩa tư
bản chiến thắng hoàn toàn xã hội phong kiến và cho giai cấp vô sản phải phụ thuộc
vào giai cấp tư sản cả về kinh tế lẫn kỹ thuật.
- Làm cho chủ nghĩa tư
bản phát triển trên cơ sở vật chất - kỹ thuật của chính bản thân nó. Do vậy đến
đây chủ nghĩa tư bản bộc lộ đầy đủ những mâu thuẫn và bản chất cơ bản của nó
như khủng hoảng, thất nghiệp…
Về
chính trị - xã hội
Đại công nghiệp cơ khí
ra đời dẫn tới sự xuất hiện một giai cấp mới - giai cấp vô sản (giai cấp công
nhân công nghiệp). Giai cấp này cùng với giai cấp tư sản hình thành nên hai
giai cấp cơ bản trong xã hội tư bản. Giai cấp tư sản là giai cấp nắm toàn bộ tư
liệu sản xuất, nắm quyền thống trị xã hội; giai cấp vô sản là giai cấp không
còn tư liệu sản xuất, đi làm thuê cho giai cấp tư sản, cùng với sự phát triển của
nền đại công nghiệp, giai cấp công nhân phát triển cả về mặt số lượng và mặt chất
lượng. Do bị áp bức và bị bóc lột nặng nề nên giai cấp vô sản đã từng bước đứng
lên đấu tranh với giai cấp tư sản và đã trở thành những phong trào rộng lớn:
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở Lyon (Pháp); phong trào hiến chương
ở Anh… Nhưng tất cả những phong trào này đều mang tính tự phát, nên một yêu cầu
khách quan phải có một lý luận khoa học để dẫn đường, nhằm đưa phong trào đấu
tranh của công nhân từ tự phát lên tự giác.
Về
mặt tư tưởng
Cuối thế kỷ XVIII đầu
thế kỷ XIX có nhiều phát minh khoa học làm cơ sở lý luận cho việc lý giải các
hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy. Đặc biệt có ba trào lưu tư tưởng lớn:
Triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội
không tưởng Pháp. Đây là những trào lưu có nhiều thành tựu khoa học để các nhà
kinh tế học mácxít kế thừa và phát triển. Đối với triết học cổ điển Đức: Trong
phép biện chứng duy tâm của F.Hegel, chủ nghĩa duy vật siêu hình của Feuerbach,
các nhà kinh tế mácxít đã khắc phục mặt duy tâm và siêu hình, đồng thời kế thưa
phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật của các ông để xây dựng nên phương pháp luận
khoa học của mình, đó là phép duy vật biện chứng. Đối với kinh tế chính trị tư
sản cổ điển Anh: các nhà kinh tế học mácxít đã kế thừa những thành tựu khoa học
của trường phái tư sản cổ điển về lý luận giá trị, tiền tệ, tiền công, lợi nhuận,
địa tô… Đồng thời khắc phục những hạn chế, từ đó bổ sung, phát triển làm cho những
lý luận trở lên hoàn chỉnh và khoa học. Đối với chủ nghĩa xã hội không tưởng
Pháp: các nhà kinh tế học mácxít đã khắc phục tính không tưởng của họ là dựa
vào nhà nước tư sản và lòng từ thiện của các nhà tư sản để xóa bỏ chủ nghĩa tư
bản, xây dựng xã hội mới. Từ đó đưa chủ nghĩa xã hội không tưởng thành khoa học.
Tóm lại, trên cơ sở kế thừa tinh hoa của nhân loại, kết hợp với thực tiễn của
chủ nghĩa tư bản và với tài năng trí tuệ của mình Mác, Ăngghen và Lênin đã sáng
lập và phát triển kinh tế chính trị mácxít.