Cha
John Bates Clark (1847-1938): lí thuyết năng suất giới hạn, lí thuyết
phân phối.
Con
John Maurice Clark: lí thuyết về chi phí bất biến và chi
phí khả biến. Đã chia kinh tế chính trị thành kinh tế tổng hợp, kinh tế tĩnh và
kinh tế động.
Lí
thuyết “Năng suất giới hạn”:
- Trên cơ sở lý thuyết
“ba nhân tố sản xuất” của J.B.Say, lý thuyết “năng suất bất tương xứng” của
D.Ricardo, lý thuyết “ích lợi giới hạn” của thành Viên Áo, Clark đưa ra lý thuyết
năng suất giới hạn.
- Theo D.Ricardo: “Năng
suất bất tương xứng” đó là khi tăng thêm 1 nhân tố sản xuất nào đó (trong 3
nhân tố lao động, đất đai, tư bản) mà các nhân tố khác không đổi thì sẽ giảm năng
suất của nhân tố tăng thêm.
- Phối hợp với lí thuyết
“ích lợi giới hạn”, Clark đã nghiên cứu về quy luật năng suất lao động (NSLĐ). Theo
ông ích lợi của lao động thể hiện ở NSLĐ (ích lợi các yếu tố sản xuất thể hiện ở
năng suất của nó). Song NSLĐ của các yếu tố sản xuất là giảm sút (bất tương xứng),
do vậy đơn vị yếu tố sản xuất được sử dụng sau cùng là đơn vị yếu tố sản xuất
giới hạn - sản phẩm của nó là sản phẩm giới hạn, năng suất của nó là năng suất
giới hạn, nó quyết định năng suất của tất cả các đơn vị yếu tố sản xuất khác
(Người công nhân cuối cùng là “người công nhân giới hạn”, sản phẩm của họ là “sản
phẩm giới hạn” và NSLĐ của họ là “NSLĐ giới hạn”, quyết định NSLĐ của những người
lao động khác).
Lí
thuyết phân phối của Clark:
Dựa vào lí thuyết năng
suất giới hạn, sử dụng lí thuyết năng lực chịu trách nhiệm của các yếu tố sản
xuất theo đó, thu nhập là năng lực chịu trách nhiệm của các yếu tố sản xuất. Ông
đưa ra lí thuyết về tiền lương, lợi nhuận, lợi tức, địa tô.
Cụ thể: - Người lao động nhận tiền lương = Sản phẩm
giới hạn của lao động
- Nhà tư bản - Lợi tức = Sản phẩm giới
hạn của tư bản
- Chủ đất - Địa tô = Sản phẩm giới hạn
của đất đai
- Nhà kinh doanh - Lợi nhuận = Thặng dư
của người sử dụng các yếu tố sản xuất
Từ đó: Phân phối là
bình đẳng, không còn bóc lột nữa. MLí thuyết về chi phí bất biến và chi phí khả
biến của T.M.Clark (con) Là sự tiếp tục nghiên cứu của Clark (cha) –Phân tích
kinh tế trong trạng thái động
- Để sản xuất hàng hóa
phải sử dụng máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, lao động
Đó chính là chi phí sản
xuất (còn gọi là chi phí toàn bộ).
- Có 2 loại: (2 bộ phận)
hợp thành chi phí toàn bộ.
+ Chi phí bất biến: Những
chi phí không biến đổi so với quy mô sản xuất sản phẩm (dù quy mô sản xuất có
thay đổi nó cũng không thay đổi). Ví dụ: thuế đất, thuế nhà, trả lương ban giám
đốc - thậm chí không sản xuất cũng phải chi phí.
+ Chi phí khả biến: là
chi phí thay đổi theo quy mô sản xuất sản phẩm. Ví dụ: nguyên vật liệu, lao động
trực tiếp sản xuất
- Chi phí giới hạn: chi
phí tăng thêm để sản xuất một đơn vị sản phẩm cuối cùng.
Chi
phí giới hạn = Chi phí đứng sau – Chi phí đứng trước
Xu hướng chung: lúc đầu
chi phí giới hạn giảm dần đến một quy mô nhất định của sản lượng thì tăng cùng
với sự phát triển của quy mô sản xuất, do đó chi phí bình quân cho mỗi sản phẩm
cũng biến động tương tự.
- Lý thuyết này được sử
dụng để xác định giới hạn của việc tăng quy mô sản phẩm.
- Các nhà kinh tế cũng
vận dụng để xây dựng lí thuyết gia tốc phân tích nguyên nhân khủng hoảng kinh tế
và giải quyết điều chỉnh chu trình kinh doanh.