(Được phát triển từ tư
tưởng của nhà kinh tế học người Đức Herman Gossen (1810-1858) đưa ra định luật
nhu cầu và tư tưởng về ích lợi giới hạn) từ đó phát triển thành lí thuyết kinh
tế “ích lợi giới hạn”.
Lí
thuyết sản phẩm kinh tế: (Các đại biểu: Carl Menger,
B.Bawerk, V. Wiser)
+ Đưa ra khái niệm “sản
phẩm kinh tế” thay cho phạm trù “hàng hóa”. Sản phẩm phải có đủ 4 tính chất để
được coi là sản phẩm kinh tế:
- Có khả năng thỏa mãn nhu cầu hiện tại của con
người (Nhu cầu không còn thì sản phẩm mất đặc tính kinh tế, hoặc sản phẩm hỏng
không thỏa mãn nhu cầu thì cũng không là sản phẩm kinh tế)
- Công dụng của nó con
người phải biết rõ (vì sản phẩm trong tự nhiên rất nhiều)
- Phải ở trong tình trạng
có khả năng sử dụng được (không ở dạng tiềm năng)
- Số lượng của nó có giới
hạn (ở tình trạng khan hiếm, nếu vật phẩm quá dư thừa sẽ không phải là sản phẩm
kinh tế)
+ Sản phẩm kinh tế có
hai đặc tính “Ích lợi giới hạn” và “Giá trị giới hạn”, cơ sở xây dựng lí thuyết
“ích lợi giới hạn và giá trị”.
Lí
thuyết ích lợi giới hạn và giá trị:
+ Ích lợi giới hạn:
- Ích lợi là đặc tính cụ
thể của vật, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người, có nhiều loại:
Ích lợi kết quả: ích lợi
vốn có của vật chất (VD: củi đốt thì nóng lên)
Ích lợi chủ quan: ích lợi
được sử dụng theo yêu cầu con người (VD: con người dùng sức nóng của củi đốt để
sưởi ấm, nấu ăn)
Ích lợi cụ thể: ích lợi
của số lượng vật phẩm mà người ta có thể đo lường được (VD: quần áo để mặc, gạo
để ăn)
- Theo đà thỏa mãn nhu
cầu, ích lợi có xu hướng giảm dần. Cùng với đà tăng lên của vật phẩm để thỏa
mãn nhu cầu thì “mức bão hòa” về vật phẩm tăng lên còn “mức độ cấp thiết” của nhu
cầu giảm xuống. Do đó theo đà thỏa mãn nhu cầu tăng thì ích lợi của vật có xu
hướng giảm (vật phẩm sau đưa ra thỏa mãn nhu cầu có ích lợi ít hơn vật phẩm trước).
- Với số lượng vật phẩm
nhất định, vật phẩm cuối cùng để thỏa mãn nhu cầu sẽ là “vật
phẩm giới hạn”, ích lợi
của nó là “ích lợi giới hạn”, nó quyết định ích lợi chung của tất cả các vật phẩm
khác. Vậy: ích lợi giới hạn là ích lợi của vật phẩm cuối cùng đưa ra thỏa mãn
nhu cầu, ích lợi đó là nhỏ nhất, nó quyết định ích lợi của tất cả các vật phẩm
khác.
- Nội dung quy luật
“ích lợi giới hạn” ngày càng giảm: Theo đó, số lượng sản phẩm kinh tế càng ít
thì “ích lợi giới hạn” càng lớn. Sản phẩm kinh tế tăng thì tổng ích lợi tăng
còn “ích lợi giới hạn” giảm, có thể dẫn tới 0 (VD: nước quá nhiều, không còn
khan hiếm thì chỉ còn ích lợi trừu tượng)
Thể hiện quan điểm tách
rời giá trị và ích lợi
+ Lí thuyết giá trị:
(Giá trị giới hạn)
- Lí thuyết giá trị -
ích lợi (giá trị - chủ quan): (phủ nhận lí thuyết giá trị - lao động của kinh tế
tư sản cổ điển và Mác). Theo đó “ích lợi giới hạn” quyết định giá trị của sản
phẩm kinh tế, đó là “giá trị giới hạn”, nó quyết định giá trị của tất cả các sản
phẩm khác (ích lợi của vật quyết định giá trị - ở đây là: “ích lợi giới hạn”).
Muốn có nhiều giá trị phải tạo ra sự khan hiếm.
- Giá trị trao đổi
(GTTĐ): Ngược với A.Smith cho rằng GTTĐ là khách quan, Menger cho rằng GTTĐ là
chủ quan, sở dĩ hai người trao đổi sản phẩm cho nhau là vì cả hai đều tin rằng
sản phẩm mà mình bỏ ra đối với mình ít giá trị hơn sản phẩm mà mình thu về (Có
sự so sánh các sản phẩm, nếu có lợi mới trao đổi, căn cứ vào nhu cầu bản thân)
- Các hình thức giá trị:
Giá trị khách quan: xuất
phát từ tác dụng của một vật mang lại cho ta kết quả cụ thể (than đốt cho nhiệt
lượng). Điều này biểu hiện mối quan hệ của vật phẩm và kết quả xuất phát từ việc
sử dụng vật phẩm, không bao hàm những phán đoán chủ quan của con người. Giá trị
chủ quan: xuất phát từ sự tiêu dùng những kết quả mà sản phẩm mang lại cho con
người quy định sử dụng nó như thế nào (nhiệt lượng đốt than sử dụng vào việc
gì). Từ đó phân chia giá trị sử dụng (GTSD) và GTTĐ thành: GTSD chủ quan, GTTĐ
chủ quan, GTSD khách quan, GTTĐ khách quan. Căn cứ phân chia là nơi nhận sản phẩm,
của cải tới tay ai?