“Nền kinh tế hỗn hợp” là nền kinh tế kết hợp
trong đó kinh tế tư nhân và kinh tế Nhà nước, nó được điều hành bởi cơ chế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước.
Ba vấn đề của tổ
chức kinh tế:
Mọi xã hội, mọi
nền kinh tế đều phải đối phó với 3 vấn đề
+ Sản xuất hàng
hóa gì? Với số lượng bao nhiêu?
+ Sản xuất hàng
hóa như thế nào? Ai là người sản xuất, sản xuất bằng nguồn lực nào, sử dụng kĩ
thuật sản xuất nào?
+ Sản xuất cho
ai? Ai là người được hưởng các thành quả của những nỗ lực kinh tế, hay sản phẩm
quốc dân được phân chia như thế nào?
Trong lịch sử đã
có hai phương thức:
Một là, Chính phủ
đưa ra hầu hết các quyết định kinh tế. Hai là, các quyết định kinh tế đều do thị
trường xác định Cả hai phương thức đều có ưu điểm và hạn chế, không nên tuyệt đối
hóa một phương thức nào mà cần kết hợp: cơ chế thị trường và điều tiết của Nhà
nước.
Cơ chế thị trường:
Theo Samuelson,
cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó cá nhân người tiêu
dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định ba vấn
đề trung tâm của tổ chức kinh tế. Là cơ chế tinh vi, phối hợp một cách không tự
giác mọi người, mọi hoạt động và mọi doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả thị
trường.
+ Không phải là
sự hỗn độn mà là một trật tự kinh tế.
+ Là phương tiện
giao tiếp để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá nhân khác nhau.
Không có bộ não trung tâm, nó vẫn giải được những bài toán mà máy tính lớn nhất
ngày nay không thể giải nổi (giải quyết những vấn đề sản xuất phân phối).
+ Không ai thiết
kế ra, xuất hiện tự nhiên và cũng thay đổi (luôn luôn thay đổi) như xã hội loài
người. Không cá nhân hay tổ chức đơn lẻ nào có trách nhiệm sản xuất, tiêu dùng,
phân phối hay định giá. Thị trường: Là cơ chế trong đó người mua và người bán
tương tác với nhau để xác định giá cả và sản lượng hàng hóa hay dịch vụ.
+ Các yếu tố:
hàng hóa, tiền tệ, người bán, người mua, giá cả hàng hóa.
+ Sự hoạt động của
giá cả hàng hóa là tín hiệu đối với người sản xuất và tiêu dùng, giá là quả cân
trong cơ chế thị trường là biểu hiện sự hoạt động của quy luật giá trị. Quan hệ
cung- cầu: Là khái quát của hai lực lượng cơ bản người bán và người mua ở trên thị
trường. Sự biến đổi của giá cả dẫn đến biến đổi cung- cầu.
Cơ chế thị trường
chịu sự điều khiển của “hai ông vua” là người tiêu dùng và kĩ thuật (Người tiêu
dùng thống trị, điều khiển thị trường nhưng lại bị kĩ thuật hạn chế vì kinh tế
không thể vượt qua giới hạn của khả năng sản xuất). Do đó, chỉ người tiêu dùng
không quyết định được sản xuất cái gì mà còn thêm còn thêm: chi phí sản xuất,
các qui định kinh doanh. Vì thế thị trường đóng vai trò trung gian hòa giải sở
thích người tiêu dùng và hạn chế của kĩ thuật. “Sản xuất cái gì phải do cả chi
phí kinh doanh lẫn các qui định cung và cầu của người tiêu dùng quy định”. Cho
nên trong khi nghiên cứu không chỉ có vai trò của cầu mà còn có vai trò của
cung.
Động lực: lợi
nhuận (Chi phối hoạt động của người sản xuất kinh doanh)
Môi trường: cạnh
tranh. Cơ chế thị trường không phải lúc nào cũng đưa tới kết quả tối ưu mà có
những khuyết tật nhất định, nhiều vấn đề thị trường không giải quyết nổi (độc
quyền, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng, thất nghiệp, sự phân phối bất bình đẳng).
Do đó theo Samuelson cần có sự can thiệp của chính phủ (Nhà nước) để khắc phục
các khuyết tật.
Vai trò kinh tế
của chính phủ:
Có 4 chức năng:
- Thiết lập
khuôn khổ pháp luật: đề ra các quy tắc mà doanh nghiệp, người tiêu dùng và cả chính
phủ cũng phải tuân theo. Bao gồm: các quy định về tài sản, các quy tắc về hợp đồng
và hoạt động kinh doanh, các trách nhiệm hỗ trợ của các liên đoàn lao động, ban
quản lý và các luật lệ để xác định môi trường kinh tế.
- Sửa chữa, khắc
phục những khuyết tật của cơ chế thị trường.
+ Can thiệp hạn
chế độc quyền (phá vỡ cạnh tranh hoàn hảo, cho phép một cá nhân hay tổ chức đơn
lẻ có thể quy định giá cả hàng hóa làm biến dạng cầu và sản xuất, xuất hiện lợi
nhuận siêu ngạch độc quyền và có thể được sử dụng vào những hoạt động vô ích,
do đó làm giảm hiệu quả nền kinh tế)
+ Can thiệp vào
các tác động bên ngoài. Ví dụ: sự ô nhiễm môi trường, sự khai thác bừa bãi tài
nguyên...
+ Đảm nhiệm việc
sản xuất các hàng hóa công cộng: cần thiết, có ý nghĩa quan trọng, mà tư nhân
không muốn hoặc không thể sản xuất (quốc phòng, an ninh...)
+ Thu thuế: để đảm
bảo hoạt động của Chính phủ.
- Đảm bảo sự
công bằng: cơ chế thị trường tất yếu dẫn đến sự phân hóa và bất bình đẳng (Về
thu nhập, sự bất công...) do nhiều nguyên nhân.
+ Công cụ quan
trọng nhất: Thuế lũy tiến (thu nhập), người có thu nhập cao (giàu) thuế lớn hơn
người có thu nhập thấp (nghèo).
+ Công cụ thứ
hai: Hỗ trợ thu nhập (trợ cấp người cao tuổi, tàn tật, thất nghiệp,... ) bằng hệ
thống thanh toán chuyển nhượng.
+ Công cụ thứ
ba: Trợ cấp tiêu dùng cho nhóm người có thu nhập thấp bằng cách phát tem phiếu
mua thực phẩm, chăm sóc y tế có trợ cấp, giảm tiền nhà...
- Tăng trưởng và
ổn định kinh tế vĩ mô: Chính phủ sử dụng các chính sách tiền tệ, tài chính tác
động tới chu kỳ kinh doanh, giải quyết nạn thất nghiệp, chống trì trệ, lạm
phát.
Nhận xét: Trong
nhiều trường hợp, sự can thiệp của Nhà nước cũng có những hạn chế như
có nhiều vấn đề
Nhà nước không lựa chon đúng, sự tài trợ của Chính phủ có lúc kém hiệu quả (do chương
trình quá lớn, thời gian quá dài), sự ảnh hưởng của chủ quan (Chính phủ bị chi
phối bởi thiểu số người, hoặc bởi những người bất tài, tham nhũng,...) dẫn đến
việc đưa ra những quyết định sai lầm, không phù hợp với quy luật khách quan,
không phản ánh đúng sự vận động của thị trường. Vì vậy theo Samuelson sự can
thiệp của Nhà nước chỉ nên giới hạn “trong khuôn khổ khôn ngoan của cạnh
tranh”.
Tóm lại, phát
triển kinh tế có hiệu quả là phải dựa vào cả “hai bàn tay:
+ Cơ chế thị trường
(bàn tay vô hình): xác định giá cả, sản lượng trong nhiều lĩnh vực.
+ Sự điều tiết của
Chính phủ (bàn tay hữu hình): bằng các chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ.