Saturday, August 5, 2017

HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA TRƯỜNG PHÁI CHÍNH HIỆN ĐẠI PHẦN 3/6

Lý thuyết thất nghiệp
Thất nghiệp là vấn đề trung tâm của các xã hội hiện đại.
Các khái niệm về thất nghiệp và tỉ lệ thất nghiệp:
- Người có việc làm là những người đi làm. Còn những người thất nghiệp là những người không có việc làm nhưng đang tìm việc làm.
- Tỷ lệ thất nghiệp là số người thất nghiệp chia cho toàn bộ lực lượng lao động
- Thất nghiệp tự nguyện: Là tình trạng thất nghiệp mà ở đó công nhân không muốn làm việc với mức lương trên thị trường lúc đó.
- Thất nghiệp không tự nguyện: Là tình trạng với mức lương cứng nhắc, không thay đổi, một quỹ lương nhất định chỉ thuê được một lượng công nhân nhất định, số còn lại đi làm với mức lương đó nhưng không tìm được việc làm.
Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
(Đây là một trong những khái niệm quan trọng của kinh tế học vĩ mô hiện nay). Thất nghiệp tự nhiên là mức mà ở đó các thị trường lao động khác biệt ở trạng thái cần bằng. Ở một số thị trường thì cầu quá mức (nhiều việc mà không có người làm), trong khi đó có những thị trường khác thì cung quá mức (hay thất nghiệp). Gộp lại, tất cả những nhân tố hoạt động để sức ép đối với tiền lương và giá cả trên tất cả các thị trường đều cân bằng. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên luôn luôn lớn hơn không. Vì trong một nước rộng lớn, mức độ cơ động cao, thị hiếu và tài năng đa dạng, mức cung cầu về số lượng hàng hóa, dịch vụ thường xuyên thay đổi, tất yếu có thất nghiệp tạm thời.
 Ảnh hưởng của thất nghiệp tự nhiên

Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên liên quan chặt chẽ đến lạm phát. Đó là tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất mà đất nước có thể chấp nhận được ở mức trung bình mà không có nguy cơ gây lạm phát tăng xoáy ốc. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên có xu hướng ngày càng tăng: nguyên nhân là do ngày càng tăng của số lượng thanh thiếu niên, người thiểu số, phụ nữ vào lực lượng lao động, tác động của chính sách (như trợ cấp bảo hiểm) làm cho công nhân thất nghiệp không tích cực tìm việc làm, do thay đổi cơ cấu sản xuất… Để giảm tỷ lệ thất nghiệp nhiên, cần cải thiện dịch vụ thị trường lao động, mở các lớp đào tạo, loại bỏ những trở ngại về chính sách của chính phủ, tạo việc làm công cộng.