Thursday, August 3, 2017

HỌC THUYẾT TƯ SẢN CỔ ĐIỂN ANH-PHẦN 3/6

Học thuyết kinh tế của Adam Smith
Đây là một trong những học thuyết có tiếng vang lớn, là sự trình bày một cách có hệ thống các phạm trù kinh tế, xuất phát từ các quan hệ kinh tế khách quan. Học thuyết kinh tế của ông có cương lĩnh rõ ràng về chính sách kinh tế, có lợi cho giai cấp tư sản trong nhiều năm. 

a. Tư tưởng tự do kinh tế - Lý luận về “bàn tay vô hình”
+ Điểm quan trọng của lý thuyết này là Adam Smith đưa ra phạm trù con người kinh tế. Ông quan niệm động lực thúc đẩy hoạt động của con người là lợi ích cá nhân, khi chạy theo tư lợi thì “con người kinh tế” còn chịu sự tác động của “bàn tay vô hình” buộc con người kinh tế làm việc không nằm trong dự kiến từ trước là đáp ứng nhu cầu xã hội, có ý nghĩa cho xã hội. Đôi khi điều này còn đáp ứng lợi ích xã hội tốt hơn là có ý định từ trước. Ví dụ cố gắng tạo ra nhiều sản phẩm tốt chỉ là do nghĩ đến lợi ích cá nhân song lại có ích cho xã hội.
+ “Bàn tay vô hình” là sự hoạt động tự phát của các quy luật kinh tế khách quan chi phối
hoạt động của con người, từ đó cũng điều khiển các quá trình trong nền kinh tế, làm cho nền kinh tế có khả năng tự điều chỉnh tạo ra sự cân bằng. Ông cho rằng chính các quy luật kinh tế khách quan là một “trật tự tự nhiên”.
+ Để có sự hoạt động của trật tự tự nhiên thì cần phải có những điều kiện nhất định. Đó là sự tồn tại, phát triển của sản xuất hàng hoá và trao đổi hàng hoá, tự do kinh tế, quan hệ bình đẳng về kinh tế giữa những người sản xuất. Theo ông chỉ có trong chủ nghĩa tư bản mới có các điều kiện này, là xã hội được xây dựng trên cơ sở quy luật tự nhiên (xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến là không bình thường). Quan điểm này cho thấy sự đề cao vai trò cá nhân, ủng hộ sở hữu tư nhân, ca ngợi cơ chế tự điều tiết của thị trường, thực hiện tự do cạnh tranh. Nền kinh tế phải được phát triển trên cơ sở tự do kinh tế. Ông cho rằng cần phải tôn trọng trật tự tự nhiên, tôn trọng bàn tay vô hình, nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế, hoạt động kinh tế vốn có cuộc sống riêng của nó. Theo ông: “quy luật kinh tế là vô địch, mặc dù chính sách kinh tế có thể kìm hãm hay thúc đẩy sự hoạt động của các quy luật kinh tế”. Khi được hỏi: “Chính sách kinh tế nào là phù hợp với ‘trật tự tự nhiên?”, ông trả lời: “Tự do cạnh tranh”. Tóm lại xã hội muốn giàu có thì phải phát triển kinh tế theo tinh thần tự do, cần phải “Laisse – faire!” tức là “Mặc kệ nó!”. Đây chính là nội dung của chủ nghĩa tự do kinh tế của A.Smith.
b. Phê phán chế độ phong kiến và luận chứng cương lĩnh kinh tế của giai cấp tư sản
+ Ông phê phán tính chất ăn bám của bọn quý tộc phong kiến, theo ông “các đại biểu được kính trọng nhất trong xã hội” như: nhà vua, quan lại, sĩ quan, thầy tu…cũng giống như những người tôi tớ, không sản xuất ra một giá trị nào cả.
+ Ông phê phán chế độ thuế khoá độc đoán như thuế đánh theo đầu người, chế độ thuế thân có tính chất lãnh địa, chế độ thuế hà khắc ngăn cản việc tích luỹ của nông dân
+ Ông lên án chế độ thừa kế tài sản nhằm bảo vệ đặc quyền của quý tộc, coi đó là “thể chế dã man” ngăn cản việc phát triển của sản xuất nông nghiệp
+ Ông bác bỏ việc hạn chế buôn bán lúa mỳ vì nó gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp
+ Ông vạch rõ tính chất vô lý về mặt kinh tế của chế độ lao dịch và chứng minh tính chất ưu việt của chế độ lao động tự do làm thuê
+ Ông kết luận: chế độ phong kiến là một chế độ “không bình thường”: là sản phẩm của sự độc đoán, ngẫu nhiên và dốt nát của con người, đó là một chế độ trái với trật tự ngẫu nhiên và mâu thuẫn với yêu cầu của khoa học kinh tế chính trị. Theo ông nền kinh tế bình thường là nền kinh tế phát triển trên cơ sở tự do cạnh tranh, tự do mậu dịch
c. Phê phán chủ nghĩa trọng thương
+ Adam Smith là người đứng trên lập trường của tư bản công nghiệp để phê phán chủ nghĩa
trọng thương. Ông xác định đánh tan chủ nghĩa trọng thương là niệm quan trọng bậc nhất để đánh tan ảo tưởng làm giàu bằng thương nghiệp
+ Ông phê phán chủ nghĩa trọng thương đã đề cao quá mức vai trò của tiền tệ. Theo ông, sự giàu có không phải ở chỗ có tiền mà là ở chỗ người ta có thể mua được cái gì với tiền. Ông cho rằng lưu thông hàng hoá chỉ thu hút được một số tiền nhất định và không bao giờ dung nạp quá số đó.
+ Ông phê phán chủ nghĩa trọng thương đề cao quá mức vai trò của ngoại thưong và cách
làm giàu bằng cách trao đổi không ngang giá. Ông cho rằng việc nâng cao tỷ suất lợi nhuận trong thương nghiệp bằng độc quyền thương nghiệp sẽ làm chậm việc cải tiến sản xuất. Muốn làm giàu phải phát triển sản xuất
+ Ông phê phán chủ nghĩa trọng thương dựa vào nhà nước để cưỡng bức kinh tế, ông cho
rằng chức năng của nhà nước là đấu tranh chống bọn tội phạm, kẻ thù…nhà nước có thể thực hiện chức năng kinh tế khi các chức năng đó vượt quá sức của các chủ xí nghiệp riêng lẻ như xây dựng đường sá, sông ngòi và các công trình lớn khác. Theo ông, sự phát triển kinh tế bình thường không cần có sự can thiệp của nhà nước
d. Phê phán chủ nghĩa trọng nông
+ Mục tiêu phê phán của ông là đánh tan các ảo tưởng của phái trọng nông về tính chất đặc biệt của nông nghiệp, và phá vỡ những luận điểm kỳ lạ của họ về tính chất không sản xuất của công nghiệp
+ Ông phê phán quan điểm của trọng nông coi giai cấp thợ thủ công, chủ công trường là giai cấp không sản xuất
+ Ông đưa ra nhiều luận điểm để chứng minh ngành công nghiệp là một ngành sản xuất vật chất như luận điểm về năng suất lao động, tích luỹ tư bản…
e. Lý luận về thuế khoá
+  Adam  Smith  là  người  đầu  tiên  luận  chứng  cương  lĩnh  thuế  khoá  của  giai  cấp  tư  sản, chuyển gánh nặng thuế khoá cho địa chủ và tầng lớp lao động, ông xác định thu nhập của nhà nước có thể từ hai nguồn: một là từ quỹ đặc biệt của nhà nước, tư bản đem lại lợi nhuận, ruộng đất đem lại địa tô, hai là lấy từ thu nhập của tư nhân bắt nguồn từ địa tô. lợi nhuận, tiền công
+ Ông đưa ra bốn nguyên tắc để thu thuế:
- Các thần dân phải có nghĩa vụ nuôi chính phủ, “tuỳ theo khả năng và sức lực của mình”.
- Phần thuế mỗi người đóng phải được quy định một cách chính xác
- Chỉ thu vào thời gian thuận tiện, và với phương thức thích hợp
- Nhà nước chi phí ít nhất vào công việc thu thuế
+ Ông đưa ra hai loại thuế phải thu: đó là thuế trực thu và thuế gián thu:
- Thuế trực thu là thuế đánh trực tiếp vào thu nhập: địa tô, lợi nhuận, tiền công, và tài sản kế thừa
- Thuế gián thu, ông cho rằng không nên đánh thuế vào các vật phẩm tiêu dùng thiết yếu, nên đánh thuế vào các hàng xa xỉ để điều tiết thu nhập của những người “sống trung bình hoặc cao hơn trung bình”
g. Lý luận về kinh tế hàng hoá
* Lý luận về phân công lao động
+ Adam Smith cho rằng phân công lao động là sự tiến bộ hết sức vĩ đại trong sự phát triển sức sản xuất lao động
+ Ông cho rằng phân công lao động sẽ làm tăng thêm hiệu suất lao động, tăng năng suất lao động
+ Ông khẳng định nguyên nhân dẫn đến phân công lao động là trao đổi, nên mức độ phân
công phụ thuộc vào quy mô thị trường, điều kiện để thực hiện phân công là mật độ dân số cao và sự phát triển của giao thông liên lạc
* Lý luận về tiền tệ
Adam Smith đã trình bày lịch sử ra đời của tiền tệ thông qua sự phát triển của lịch sử trao
đổi, từ súc vật làm ngang giá đến kim loại vàng, do khó khăn trong việc xác định trọng lượng vàng người ta đã đúc tiền, sau đó là tiền giấy. Ông đã nêu lên quy luật số lượng cung tiền trong lĩnh vực lưu thông
* Lý luận về giá trị - lao động
+ Adam Smith đã đưa ra thuật ngữ khoa học là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, khi phân
tích về giá trị trao đổi ông đã tiến hành phân tích qua các bước:
- Xét hàng hoá trao đổi với lao động: Ông cho rằng, thước đo thực tế của giá trị hàng hoá là lao động nên giá trị hàng hoá là do lao động sống mua được. Như vậy là ông đã đồng nhất giá trị là lao động kết tinh trong hàng hoá với lao động mà hàng hoá đó đổi được
- Xét trao đổi hàng hoá với hàng hoá: Ông viết: “giá trị trao đổi của chúng bằng một lượng hàng hoá nào đó”. Như vậy giá trị trao đổi của hàng hoá là quan hệ tỷ lệ về số lượng giữa các hàng hoá
- Xét trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ: Theo ông, khi chấm dứt nền thương nghiệp vật đổi vật thì giá trị hàng hoá được đo bằng tiền và giá cả hàng hoá là biểu hiện bằng tiền của giá trị, giá cả hàng hoá có hai loại thước đo đó là lao động và tiền tệ, trong đó thước đo là lao động là thước đo chính xác nhất của giá trị, còn tiền tệ chỉ là thước đo trong một thời gian nhất định mà thôi
- Ông đã phân biệt giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, bác bỏ quan niệm cho rằng giá trị sử
dụng quyết định giá trị trao đổi. Ví dụ: không có gì hữu ích bằng nước, nhưng với nó thì hầu như không thể mua được gì cả.
+ Adam Smith là người đưa ra quan niệm đúng đắn về giá trị hàng hoá đó là: giá trị hàng
hoá là do lao động hao phí tạo ra, khẳng định mọi thứ lao động đều bình đẳng trong việc tạo ra giá trị. Lao động là cơ sở của giá trị, thực thể của giá trị, là thước đo giá trị. Theo ông, lao động là nguồn gốc của sự giàu có của mọi quốc gia, không phải vàng hay bạc mà sức lao động mới là vốn liếng ban đầu và có khả năng tạo ra mọi của cải cần thiết.
+ Khi đề cập đến lượng giá tri, A.Smith cho răng lượng giá trị là do hao phí lao động trung bình cần thiết quyết định (không phải lượng lao động hao phí thực tế). Điều này cho thấy trong việc xác định lượng giá trị, ông đã có sự trừu tượng hóa các dạng lao động cụ thể, các chi phí lao động cá biệt để xem xét giá trị do lao động tạo ra như một đại lượng xác định mang tính chất xã hội. Ông còn chỉ rõ giá trị hàng hoá bằng số lượng lao động đã chi phí bao gồm lao động quá khứ và lao động sống, phân biệt lao động giản đơn và lao động phức tạp nhưng chưa thấy được tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa.
+ Một quan điểm sai lầm của Adam Smith khi ông cho rằng: “tiền công, lợi nhuận, địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của thu nhập cũng như của mọi giá trị trao đổi, là ba bộ phận cấu thành giá cả hàng hoá”
+ Ông cũng đã phân biệt được giá cả tự nhiên và giá trị thị trường, nhưng ông lại chưa chỉ ra được giá cả sản xuất bao gồm chi phí sản xuất và lợi nhuận bình quân.
* Lý luận về tư bản
+ Adam Smith quan niệm tư bản là những tài sản đem lại thu nhập, ông đã phân biệt tư bản cố định và tư bản lưu động song không chỉ rõ đó là đặc trưng của tư bản sản xuất, không phân biệt. Vì thế, ông đã nhầm lẫn trong việc xác định các yếu tố của tư bản cố định và tư bản lưu động (sai lầm trong việc xác định nội hàm của tư bản cố định và tư bản lưu động). Cụ thể:
- Tư bản lưu động là tư bản không đem lại thu nhập nếu nó vẫn ở trong tay người chủ sở hữu và giữa nguyên hình thái, như tiền, lương thực dự trữ, nguyên nhiên vật liệu, thành phẩm và bán thành phẩm. Nói cách khác là bộ phận tư bản mang lại thu nhập cho người chủ của nó do kết quả của việc bán hàng hóa (tư bản của thương nhân thuộc về tư bản lưu động) 
- Tư bản cố định là tư bản đem lại lợi nhuận mà không chuyển quyền sở hữu, như máy móc, công cụ lao động, các công trình xây dựng đem lại thu nhập, những năng lực có ích của dân cư. Từ đó ông coi tư bản lưu động không có tính chất sản xuất và không chứa bộ phận tiền lương của công nhân. Nguyên nhân của sai lầm này là do căn cứ phân biệt chưa đúng và chưa nhất quán. Khi thì dựa vào nguyên nhân mang lại lợi nhuận, khi thì dựa vào đặc tính của vật thể mà không căn cứ vào đặc tính di chuyển giá trị.
+ Về tích luỹ tư bản: Ông khẳng định chỉ có lao động mới là nguồn gốc của tích luỹ tư bản: “tích luỹ tư bản tăng là do kết quả của sự tiết ước và chúng giảm đi là do hoang phí và không tính toán cẩn thận”. Điều này thể hiện quan điểm tiết kiệm, nhà tư bản phải tiết kiệm, dành một phần thu nhập của mình để mở rộng sản xuất, tạo thêm việc làm nhờ đó mới tăng của cải. Theo ông: “Mỗi kẻ hoang phí là kẻ thù của sự giàu có của xã hội, mỗi người tiết kiệm là người làm giàu cho xã hội”
* Lý luận về thu nhập
+ Lý luận về tiền lương:
- Ông quan niệm tiền lương là một phần thu nhập của công nhân làm thuê, là một phần của sản phẩm lao động. Ông ủng hộ việc trả tiền lương cao
- Hai yếu tố quyết định đến mức tiền lương là cầu về lao động và giá cả trung bình của các tư liệu sinh hoạt, ông cũng đã phân biệt sự khác nhau giữa tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa
+ Lý luận về lợi nhuận, lợi tức:
- Adam Smith chỉ rõ nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận: là một khoản khấu trừ do công
nhân tạo ra là kết quả của lao động đem lại
 - Về lợi tức ông cho rằng lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận, được đẻ ra từ lợi nhuận. Lợi tức của tư bản cho vay được trả bằng cách lấy vào lợi nhuận thuần tuý và do mức lợi nhuận thuần tuý quyết định
- Ông cũng chỉ ra những nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận như: tiền công, quy mô tư bản, lĩnh vực đầu tư, cạnh tranh, sự can thiệp của nhà nước…
- Ông cũng là người chỉ ra xu hướng giảm xuống của tỷ suất lợi nhuận, và cho rằng tư bản đầu tư ngày càng nhiều thì tỷ suất lợi nhuận càng thấp
+ Lý luận về địa tô:
- Adam Smith có hai luận điểm về khái niệm địa tô: một là, địa tô là khoản khấu trừ thứ nhất vào sản phẩm lao động, hai là, địa tô là khoản tiền trả về việc sử dụng đất đai, phụ thuộc vào mức độ phì nhiêu của đất đai và việc người nông dân có khả năng trả tiền cho ruộng đất.
- Về hình thức địa tô, Adam Smith đã phân biệt hai hình thái của địa tô chênh lệch I, nhưng ông lại chưa nghiên cứu địa tô chênh lệch II
* Lý luận về tái sản xuất tư bản xã hội
+ A.Smith đã hiểu một số vấn đề của lý luận về tái sản xuất
-  Giá trị mỗi hàng hóa gồm: giá trị tư liệu sản xuất, phần khấu hao tư bản cố định và
các chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệu.
-  Tổng sản phẩm hàng năm của xã hội gồm các tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng được
tái sản xuất trong năm. Ông đã phân chia tổng sản phẩm xã hội thành hai mặt là mặt hiện vật (hình thái hiện vật) gồm tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng; mặt giá trị (hình thái giá trị) gồm toàn bộ các chi phí vật chất để sản xuất.
-  Ông cũng đưa ra các khái niệm về tổng thu nhập và thu nhập thuần túy. Phân biệt tích
lũy và cất trữ khi xem xét tái sản xuất mở rộng.
h. Lý thuyết về “lợi thế tuyệt đối”

+ Adam Smith là người đưa lý thuyết về “lợi thế tuyệt đối” được xây dựng trên cơ sở lý luận giá trị - lao động. Ông cho rằng, việc buôn bán giữa các nước diễn ra trên cơ sở lợi thế tuyệt đối của từng nước khi quốc gia này có lợi thế hơn quốc gia khác về sản xuất một loại hàng hoá nào đó, ngược lại quốc gia khác lại có lợi thế tuyệt đối về một mặt hàng nào đó, do đó khi tiến hành trao đổi cả hai nước đều có lợi ích cao nhất. Bởi vậy mỗi quốc gia phải biết chuyên môn hoá sản xuất loại hàng hoá mà họ có lợi thế hơn (chí phí lao động thấp hơn)