Nền kinh tế thị trường xã hội:
Là một nền kinh
tế thị trường kết hợp tự do cá nhân, năng lực hoạt động kinh tế với công
bằng xã hội. Nền
kinh tế thị trường xã hội không phải là nền kinh tế thị trường tư bản truyền thống
(cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX), không phải là nền kinh tế kế hoạch hoá ở các
nước XHCN trước đây, cũng không phải là nền kinh tế thị trường hiện đại của
trào lưu tự do mới vì trào lưu này quá coi nhẹ vai trò của nhà nước và các vấn
đề xã hội.
Đây là nền kinh
tế thị trường kích thích mạnh mẽ sáng kiến các nhân và lợi ích toàn xã hội, đồng
thời phòng tránh được các khuyết tật lớn của thị trường, chống lạm phát, giảm
thất nghiệp, quan tâm thực hiện công
bằng xã hội. Các quyết đinh kinh
tế và chính trị của nhà
nước được hoạch định trên cơ sở
chú ý đến những nhu cầu và nguyện vọng cá nhân. Mô hình này theo đuổi các mục
tiêu:
+ Bảo đảm và
nâng cao tự do về vật chất cho mọi công dân bằng cách bảo đảm cơ hội kinh doanh
cá thể bằng một hệ thống an toàn xã hội.
+ Thực hiện công
bằng xã hội theo nghĩa là công bằng trong khởi nghiệp và phân phối
+ Bảo đảm ổn định
bên trong của xã hội (khắc phục khủng hoảng kinh tế, mất cân đối)
Tư tưởng trung
tâm của mô hình: Tự do thị trường, tự do
kinh doanh, không có sự khống chế của độc quyền, bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, bảo
vệ hệ thống kinh tế TBCN, tính độc lập kinh tế và chịu trách nhiệm của chủ doanh
nghiệp, thừa nhận vai trò nhất định của Nhà nước (để đảm bảo phối hợp sự tự do
kinh tế với các quy tắc và chuẩn mực xã hội). Được tổ chức theo kiểu “sân bóng
đá” (Ropke và Erhard nêu ra). Trong đó:
+ Xã hội là một
sân bóng đá
+ Các giai cấp
và tầng lớp xã hội là các cầu thủ
+ Nhà nước là trọng
tài, đóng vai trò bảo đảm cho trận đấu diễn ra theo luật,
tránh khỏi những
tai họa.
Các tiêu chuẩn của nền kinh tế thị trường xã hội:
Thứ nhất, tuyệt
đối đảm bảo quyền tự do cá nhân. Thứ hai, bảo đảm công bằng xã hội thông qua
các chính sách xã hội của nhà nước. Thứ ba, chính sách kinh doanh theo chu kỳ. Nhà
nước phải có chính sách khắc phục hậu quả của khủng hoảng chu kỳ, điều chỉnh mất
cân đối. Thứ tư, chính sách tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Thứ năm,
chính sách cơ cấu. Được coi là tiêu chuẩn đặc trưng, hạt nhân trong chính sách tăng
trưởng. (Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo yêu cầu CMKHCN, đào tạo con người).
Thứ sáu, bảo đảm tính phù hợp với cạnh tranh trên thị trường, ngăn ngừa sự phá
vỡ hay hạn chế cạnh tranh quá mức trên thị trường. Ngày nay, lí thuyết này được
phát triển thành lí thuyết “Xã hội có tổ chức”, “Xã hội phúc lợi chung”.
Các chức năng của cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trường - xã hội:
Là yếu tố trung
tâm không thể thiếu, để có hiệu quả phải có sự bảo hộ của Nhà nước trên
cư sở tôn trọng
quyền tự do của các xí nghiệp.
Chức năng cơ bản của cạnh tranh:
+ Sử dụng các
nguồn tài nguyên một cách tối ưu
+ Khuyến khích
tiến bộ kĩ thuật
+ Phân phối thu
nhập
+ Thỏa mãn nhu cầu
người tiêu dùng
+ Đảm bảo tính
linh hoạt của sự điều chỉnh
+ Thực hiện kiểm
soát sức mạnh kinh tế và chính trị
+ Đảm bảo quyền
tự do lựa chọn và hành động cá nhân
Các nhân tố đe dọa cạnh tranh:
+ Từ chính phủ:
có thể hạn chế, bóp méo cạnh tranh, với tư cách người quản lí xã hội sẽ
làm suy yếu cạnh
tranh.
+ Từ phía tư
nhân: về cơ bản đó là sự hình thành tổ chức độc quyền
Do đó, các nhà
kinh tế học Đức cho rằng cần phải có biện pháp bảo vệ cạnh tranh.
Yếu tố xã hội trong kinh tế thị trường - xã hội:
Được quan tâm đặc
biệt với nội dung: nâng cao mức sống của các nhóm dân cư thu nhập
thấp, bảo trợ xã
hội đồng thời bảo vệ tất cả các thành viên trong xã hội. Muốn giải quyết tốt
các vấn đề xã hội cần phải tăng nhịp độ tăng trưởng kinh tế, phân phối thu nhập
một cách công bằng, xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội.
Vai trò của Chính phủ:
Quy tắc 1: Cần
có Chính phủ nhưng chỉ cần can thiệp khi cần thiết với mức độ hợp lí
(Nguyên tắc hỗ
trợ).
Quy tắc 2: Tạo sự
hài hòa giữa các chức năng của Chính phủ với thị trường, can thiệp phải thích hợp
với hệ thống thị trường, bảo đảm tương hợp với các quy luật thị trường.
Thành tựu và hạn chế của nền kinh tế thị trường xã hội:
+ Thành tựu kinh
tế xã hội:
- Đưa nước Đức từ
một nước thua trận trong chiến tranh thế giới thứ hai trở thành một
cường quốc kinh
tế.
- Thực hiện được
hai mục tiêu: tự do cá nhân và đoàn kết xã hội.
- Kết hợp được
khả năng công nghiệp lớn mạnh dựa trên công nghệ hiện đại với sự phát
triển thương mại
thế giới mở rộng.
- Nguyên nhân:
Coi trọng năng suất cao, coi trọng nguồn nhân lực và việc đào tạo bồi
dưỡng con người,
coi trọng nghiên cứu - triển khai, quan tâm mạnh đến các vấn đề xã hội.
+ Hạn chế:
Tăng trưởng kinh
tế gần đây chậm lại
- Về xã hội: chủ
nghĩa cá nhân cực đoan tăng lên, sự khủng hoảng về con người.
- Sự can thiệp của
nhà nước cũng cần xem xét lại.